Nghề hiếm, nghề khó

Ông chú này làm việc cả ngày ở đây trong những ngày cận Tết. Rất nhiều người đến thuê chú viết chữ, tùy theo nhu cầu của mình. Đó có thể là cầu ước về sức khỏe, sự nghiệp, buôn may bán đắt, gia đình êm ấm… Ngoài ra, một số nội dung khó hơn, kiểu như đặc biệt dành cho việc dán két sắt chẳng hạn, dán bên ngoài để tiền lưu thông, dán bên trong để khóa các hiện kim lại, ngăn chúng đội nón theo bạn bè chạy lung tung, thất thoát. Tất cả các công dụng này đòi hỏi người viết phải hiểu nhiều phong tục lâu đời cũng như kinh nghiệm về các quy luật hoạt động của vũ trụ.

Nghề hiếm, nghề khó
Nghề hiếm, nghề khó

Ba đến bốn ngàn chữ...

Mặc dù mỗi khi Tết đến, nhiều phố ông đồ mọc lên với các ông chỉn chu viết đủ các loại chữ rồng bay lên lộn xuống mù mịt… Nhưng mọi thứ không hề dễ như bạn nhìn thấy. 

Nói một cách dễ hiểu, trong đời một người Việt, chúng ta sẽ sử dụng khoảng 36.000 từ vựng, viết dựa trên 24 chữ cái. Đối với chữ Hán hay Hán Nôm, để được xem là cơ bản biết chữ, bạn cần học ba đến bốn ngàn ký tự. Mỗi ký tự biểu thị một âm tiết. Điều này có nghĩa mỗi người phải nhớ ba đến bốn ngàn chữ cái tượng hình khác nhau.

Nghề hiếm, nghề khó
Ảnh: Chineasy

Một quyển từ điển tiếng Hán xuất bản vào thế kỷ thứ mười một chứa hơn 53.000 từ. Mặc dù nhiều trong đó là từ hiếm hoặc có thể cùng ý nghĩa với nhau, tuy nhiên con số vẫn thật đáng kinh ngạc.

Nghề hiếm, nghề khó
Nghề hiếm, nghề khó

Nhiều kiểu viết

Sau khi học xong ký tự, bạn cũng cần học cách viết nữa. Có ba kiểu viết thông dụng chúng ta sẽ thường thấy ở Việt Nam.

Một số đền, chùa cổ ở Hà Nội, Hội An, Sài Gòn... nơi dễ dàng bắt gặp kiểu chữ Triện (Triện thư). Cách viết này ra đời từ rất lâu, khi người ta chỉ dùng cây que vạch trên mặt đất, vì vậy đặc trưng của nó là nét mảnh, đều nhau.

Nghề hiếm, nghề khó

Mặc dù mặt chữ mềm mại, xinh xẻo, tuy nhiên ngày nay Triện thư không mấy phổ biến vì độ khó và sự phức tạp của nó.

Để đạt tốc độ viết nhanh hơn, chữ Thảo (Thảo thư) ra đời. Các ký tự được đơn giản hóa tối đa, các nét dính với nhau, phóng khoáng, thoáng đạt đến mức... không đọc được. Đa số các thư pháp tiếng Việt bạn nhìn thấy ở các phố ông đồ hiện nay, rồng bay lên lộn xuống, đều cố gắng học theo cách viết này và cũng thường... không đọc được:

Nghề hiếm, nghề khó
Ảnh: Cityu
Nghề hiếm, nghề khó
Ảnh: Diệu Pháp Âm

Còn ông chú của chúng ta đang viết kiểu chữ gì?

Để cân bằng tất cả, dễ đọc hơn, dễ viết hơn, chữ Khải (Khải thư) ra đời. Cách viết này làm cho chữ có kết cấu chặt chẽ, chuẩn mực, đường nét thanh lịch, quy phạm. Hầu hết các tài liệu in ấn, bảng hiệu ngày nay đều sử dụng Khải thư.

Nghề hiếm, nghề khó
Nghề hiếm, nghề khó

Mặc dù thư Pháp tiếng Việt đa phần dựa trên chữ Thảo. Tuy nhiên, các tài liệu Hán Nôm của chúng ta vẫn dùng Khải thư. Khi cần viết nên điều gì trang trọng, huy hoàng, người ta đều sử dụng kiểu chữ trang nhã này.

Nghề hiếm, nghề khó
Nghề hiếm, nghề khó

Ngoài ra còn có kiểu viết Hành thư, Lệ thư, nhưng không phổ biến lắm. Các cách viết đều mang vẻ đẹp và chiều sâu phong phú khác nhau, giống như nội dung vậy, dù thoạt nhìn chúng có vẻ rối rắm khó hiểu.

Ngày nay, có rất nhiều người viết thư pháp. Nhưng đầy đủ ý nghĩa của chữ "thư" như ông chú ở đường Trần Quý quận 11 này lại ít. Vào những thời điểm khác nhau trong quá khứ, chữ Hán, Hán Nôm đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, thể hiện hết mọi mặt của cuộc sống của một người Việt. Ngôn ngữ luôn mang vẻ đẹp của nó, dù bây giờ chỉ còn được phản ánh bằng một ông chú già ở góc đường cặm cụi, thỉnh thoảng ngủ gục ngay bên nét chữ dang dở của mình.